Ung thư tuyến giáp thể tủy - Đại cương và Chẩn đoán

Ngày đăng: 24-05-2021 08:34:37

Giới thiệu chung:

Ung thư tuyến giáp thể tủy (MTC) chiếm 1% - 2% các trường hợp ung thư tuyến giáp ở Hoa Kỳ. MTC khác với các loại ung thư tuyến giáp khác (bắt nguồn từ các tế bào nang giáp - tế bào tạo ra hormone tuyến giáp), vì nó bắt nguồn từ các tế bào C parafollicular (còn được gọi là “tế bào C”) của tuyến giáp. Những tế bào này không tạo ra hormone tuyến giáp và thay vào đó tạo ra một loại hormone khác gọi là calcitonin.

♦ MTC có thể, và thường xuyên, lây lan đến các hạch bạch huyết và cũng có thể lây lan sang các cơ quan khác. MTC có khả năng xảy ra trong gia đình (dạng di truyền) lên đến 25% các trường hợp chẩn đoán và dạng di truyền có thể kết hợp với các khối u nội tiết khác, trong các hội chứng được gọi là Đa sản nội tiết (MEN) 2A và MEN 2B. Ngoài MTC, bệnh nhân bị MEN2A có thể có khối u của tuyến thượng thận được gọi là pheochromocytomas hoặc ở tuyến cận giáp (u tuyến cận giáp). Bệnh nhân mắc MEN2B, có MTC, pheochromocytomas và u thần kinh (điển hình là sự phát triển lành tính hoặc khối u của mô thần kinh) trong niêm mạc miệng và / hoặc đường tiêu hóa.

ung thư tuyến giáp thể tủy

♦ Bệnh nhân có dạng MTC di truyền thường có đột biến trong gen được gọi là gen sinh ung thư RET. Đột biến này có trong tất cả các tế bào trong cơ thể chúng (đột biến dòng mầm) và những đột biến này gây ra sự phát triển của MTC. Điều này rất quan trọng vì trong các thành viên trong gia đình của một người có dạng MTC di truyền, xét nghiệm máu tìm đột biến trong gen protooncogene RET có thể dẫn đến chẩn đoán sớm MTC và phẫu thuật điều trị để loại bỏ nó. Tuy nhiên, ở phần lớn bệnh nhân (~ 75%) không tìm thấy đột biến dòng mầm - cho thấy MTC không phải là tình trạng di truyền hoặc có thể di truyền. Trong những trường hợp này, MTC được gọi là rời rạc.

♦ Có thể xác định MTC là đơn lẻ hay gia đình bằng xét nghiệm máu tìm protooncogene RET. Bất kỳ ai được chẩn đoán mắc MTC đều nên thực hiện xét nghiệm này để xác định xem MTC có tính chất gia đình hay không (nghĩa là các thành viên khác trong gia đình cũng có thể mắc MTC chưa được chẩn đoán) hay lẻ tẻ.

Đột biến gen RET

♦ Gen sinh ung thư RET nằm trên nhiễm sắc thể số 10. Một đột biến di truyền trong gen sinh ung thư RET được nhìn thấy trong tất cả các tế bào trong cơ thể ở những bệnh nhân có dạng MTC di truyền. Các đột biến trong RET cũng có thể chỉ được nhìn thấy trong các tế bào khối u ở những bệnh nhân bị MTC lẻ tẻ. Kể từ khi phát hiện ra gen gây ung thư RET, hơn 100 đột biến khác nhau đã được xác định trong gen ở bệnh nhân MTC.

♦ Tư vấn di truyền và xét nghiệm các đột biến gen RET nên được cung cấp cho bệnh nhân được chẩn đoán mắc MTC và người thân cấp một (cha mẹ, anh chị em và con của người được chẩn đoán mắc MTC) của tất cả bệnh nhân có đột biến gen đã được chứng minh (MTC di truyền). Nếu những người thân ruột thịt, đặc biệt là trẻ em, được phát hiện có đột biến RET khi xét nghiệm máu, tuyến giáp có thể bị cắt bỏ trước khi MTC có cơ hội phát triển hoặc ít nhất là trong giai đoạn rất sớm của nó.

Một số khuyến cáo trong chẩn đoán MTC:

- Nồng độ calcitonin tăng cao là tiêu chuẩn bắt buộc chẩn đoán

- Một số trường hợp hiếm gặp nồng độ Calcitonin (Ctn) âm tính thì xét nghiệm CEA có thể hữu ích

- Đột biến gen RET và RAS được coi là nguyên nhân chính của ung thư tuyến giáp thể tủy

- Tất cả các bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể tủy (MTC) nên được tư vấn di truyền và sàng lọc các đột biến gen RET dòng mầm

- MTC có đột biến gen RET – soma ác tính hơn những MTC có đột biến gen RET hoang dã

- Việc tầm soát các đột biến RET soma không được khuyến khích thường xuyên nhưng nên được tiến hành nếu liệu pháp ức chế RET được lên kế hoạch.

Đánh giá giai đoạn và nguy cơ

- Việc phân chia giai đoạn MTC được đánh giá theo hệ thống UICC TNM lần thứ 8

- Nồng độ Ctn > 500pg/ml là dấu hiệu của bệnh di căn và cần được xác định bằng hình ảnh toàn thân. Mức Ctn < 150pg/ml thường khó phát hiện di căn.

- Ctn huyết thanh nên được đo 60 -90 ngày sau cắt bỏ tuyến giáp ( mức bình thường sau phẫu thuật <10pg/ml cho thấy khả năng chữa khỏi bệnh)

- CEA huyết thanh không hữu ích cho chẩn đoán nhưng có thể được sử dụng để theo dõi sự tiến triển của MTC trên lâm sàng

- Nhân đôi thời gian đối với nồng độ Ctn và CEA sau phẫu thuật ( được định nghĩa là khoảng thời gian mà nồng độ này tăng gấp đôi) là dấu hiệu tiên lượng sự tái phát và tử vong (Với thời gian nhân đôi ngắn hơn cho thấy tiên lượng xấu hơn; thời gian nhân đôi dưới 24 tháng thường tiên lượng xấu).

Bản quyền thuộc về ungthutuyengiap.org. Vui lòng trích dẫn nguồn khi sử dụng! Trân trọng cảm ơn!

Chia sẻ:

Bình luận

Bài viết liên quan

02438552353